About Me

Tại sao lại gọi là Ba, Má, Bố, Mẹ, Cha, Tía?

Tên gọi ba, má trong tiếng Việt là hiện tượng phổ quát của ngôn ngữ (linguistic universal) trên thế giới. Tiếng Bengal (ngôn ngữ chính thức của Bangladesh và một số bang vùng đông bắc Ấn Độ) gọi là baba, ma. Phương ngôn Quan Thoại (Trung Quốc) gọi là baba, mama. Tiếng Mãori của tộc người bản địa ở New Zealand gọi là papa, mama. Xa xôi như ở châu Phi, tiếng Swahili cũng gọi cha mẹ là baba, mama.

Tại sao lại có sự tương đồng giữa các ngôn ngữ trên thế giới về hai từ này? Một số nhà khoa học tin rằng “pa” và “ma” là những từ đầu tiên con người phát ra khi đứa bé bắt đầu bập bẹ nói. Theo đó, các nhà ngôn ngữ học của nhiều quốc gia trên thế giới đã có khuynh hướng tương đồng khi sử dụng âm thanh đầu tiên đó của đứa trẻ như là từ vựng dùng để gọi cha và mẹ. Do đó, chúng tôi cho rằng không cần phải gán hai từ “ba“, “má” trong tiếng Việt xuất xứ từ nguồn gốc ngôn ngữ nào mà như chúng tôi đã trình bày ở trên, hai từ này là hiện tượng phổ quát của ngôn ngữ trên thế giới.



Ở Việt Nam, một số người dựa vào phần ngữ âm đã cho rằng ba, má là đọc trại từ tiếng Pháp Papa, Maman mà ra. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khi người Pháp bắt đầu chiếm hoàn toàn Nam Kỳ Lục tỉnh vào năm 1867, thì vào năm 1898, từ điển Dictionnaire Annamite-Francais của J.F.M Génibre xuất bản vào năm này đã có ghi nhận hai từ “ba”, “má” rồi. Với khoảng thời gian khá ngắn như thế (chỉ tròm trèm 30 năm), thật không dễ gì người Pháp có thể áp đặt người miền Nam Việt Nam thay đổi cách xưng hô trong hệ thống thân tộc của mình.

Nhà nghiên cứu An Chi thì cho rằng “ba”, “má” là hai từ Việt gốc Quảng Đông. Còn hai từ Bố, Mẹ, ông cho rằng xuất phát từ hai nguồn gốc khác nhau. Trong khi Mẹ là cách gọi hiện đại, được biến âm trực tiếp từ từ “mère” trong tiếng Pháp có nghĩa là “người phụ nữ có công sinh thành”; thì “Bố” lại là biến âm của từ “bô“(1) – một từ gốc Hán 100%, có nguồn gốc từ từ “父” với phiên âm địa phương là “pē”, phiên âm chính thống là “Fù” – tương ứng với Phụ(2).

Sách “Lĩnh nam chích quái” có viết: “Long Quân dạy dân việc cày cấy, cơm ăn áo mặc, đặt ra các cấp quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng. Đôi khi trở về thủy phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: “Bố ơi! sao không lại cứu chúng con” thì Long Quân tới ngay. Sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi”.

Biến thể của từ “Bô” ngoài “Bố” ra còn có “Bọ” (Quảng Bình), hay một từ không có nghĩa là “Bố” nhưng rất gần với “Bố”, đó là “Bõ” (Vùng đồng bằng Bắc Bộ) chỉ người đầy tớ già, có quan hệ khăng khít với thiếu chủ (người chủ nhỏ) trong gia đình quyền quý trước kia giống như cha vậy.(3)

Ở đồng bằng sông Cửu Long (miền Tây Nam Bộ), người ta còn dùng từ cha hoặc tía để chỉ hoặc gọi người cha nữa. Hai từ này là biến âm của tiếng Trung Quốc “爹” (với phiên âm là “Diē”).

Chú thích:

(1) Từ “bô” trong “Bô lão”, thời phong kiến, cũng thường để chỉ những người đàn ông ở tầng cao trong dòng tộc, đồng nghĩa còn có “Phụ lão”.

(2) Ngày nay, khi người Hoa phát âm từ 父, ta nghe là phụ và phát âm này bắt đầu từ đời Đường. Còn thời Hán, từ 父 phát âm là bố (pē) mà nghĩa của nó cũng là …bố!

(3) Từ “Bõ” này khi vào miền Nam lại thành “Cha xứ”, “Cha đỡ đầu”. Người vùng Bắc Bộ trước kia coi trọng việc học, và thời phong kiến có ba mối quan hệ mà người con rất coi trọng: Bố-con, Thầy-trò, và Quân-thần. Bởi vậy mà có tục gọi “Bố” là “Thầy” (hiện vẫn còn dùng ở Thái Bình).

Đăng nhận xét

0 Nhận xét